A. DI TÍCH LỊCH SỬ CẤP TỈNH "ĐỊA ĐIỂM CĂN CỨ HUYỆN ỦY THĂNG BÌNH" TẠI THÔN LINH CANG
I. Tên gọi di tích.
“Địa điểm Căn cứ huyện ủy Thăng Bình”.
II. Địa điểm và đường đi đến.
Năm 1956, Bình Phú gồm các thôn: Linh Cang (Đồng Linh và Phước Cang), Lý Trường (gồm An Trường và An Lý), Long Hội Hiệp (gồm Châu Long, Gia Hội, An Hiệp), Ngũ Xã, Phước Hà, Đức An. Cuối năm 1983, theo quyết định của Hội đồng Bộ trưởng, Bình Phú có 5 thôn: Linh Cang, Lý Trường, Long Hội, Phước Hà, Đức An.
“Địa điểm Căn cứ huyện ủy Thăng Bình” thuộc thôn Linh Cang, xã Bình Phú, nằm về phía tây nam cách trụ sở UBND xã Bình Phú khoảng chừng 7km; cách thị trấn Hà Lam về hướng tây nam khoảng 16 km, Phía bắc giáp xã Bình Quý; phía nam giáp xã Tiên Sơn (huyện Tiên Phước) và xã Tam Lộc (huyện Phú Ninh). Đất đai phần lớn là đồi gò, rừng núi khô cằn, bạc màu diện tích khoảng 500ha.
Đất đai canh tác ít, hầu hết phân bố xen kẽ giữa đồi gò, rừng núi. Sản xuất nông nghiệp hầu như độc canh, phần lớn đất đai chỉ canh tác một vụ trong năm, sản lượng rất thấp. Các ngành nghề khác: kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung, tự cấp. Những gia đình ở gần rừng núi làm nghề đốn củi, đốt than; một số gia đình ở gần bãi đất bồi thì trồng dâu nuôi tằm, dệt vải; một số gia đình làm nghề đan lát. Đại đa số người dân rất khổ cực, không có điều kiện học hành nên trong thời kỳ kháng chiến, trên 90% dân số mù chữ.
III. Sự kiện lịch sử.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời (2-9-1945) là một thắng lợi hết sức to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. Năm 1947, khi thực dân Pháp đánh chiếm Hòa Vang, Điện Bàn, Hội An, Duy Xuyên thì chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng lúc này hình thành hai vùng: vùng tự do và vùng tạm chiếm. Thăng Bình được xem là địa bàn giáp ranh (phía bắc giáp với vùng tạm chiếm, phía nam và tây giáp vùng tự do). Với vị trí đặc thù đó, công tác thực hiện đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, lâu dài” trên địa bàn Thăng Bình hết sức được chú trọng, Căn cứ huyện ủy Thăng Bình đóng trên địa bàn thôn Linh Cang, xã Bình Phú được coi là căn cứ an toàn của cả vùng - một hậu phương đối với chiến trường rộng lớn của tỉnh. Khắp nơi trên địa bàn xã Bình Phú, từ An Lý, Thăng Trường, Gia Hội đến vùng Đồng Linh, Phước Cang... xa xôi đều có đồng bào tản cư đến sinh sống.
Tháng 4-1952, Đảng bộ huyện triệu tập đại hội đảng bộ huyện lần thứ VI tại đình An Hiệp (Bình Phú). Vào các năm 1952- 1953, Căn cứ huyện ủy Thăng Bình đóng trên địa bàn thôn Linh Cang, xã Bình Phú trở thành địa bàn quan trọng nối liền giữa chiến trường phía Đông Bắc và Tây Nam của tỉnh và con đường xuyên qua vùng Đồng Linh - Phước Cang đến Tiên Phước trở thành huyết mạch quan trọng nối liền phía bắc Thăng Bình với phía nam Tiên Phước góp phần rất lớn trong việc chuyển quân, liên lạc, tiếp tế cho chiến trường. Năm 1952, Mặt trận tỉnh chủ trương xây dựng nhà thương của tỉnh tại thôn Đức An để tiếp nhận thương binh, bệnh binh của chiến trường cả tỉnh về an dưỡng và điều trị.
Cuối năm 1963, Đại hội Đảng bộ huyện Thăng Bình lần thứ VII họp tại nhà ông Thoại tại thôn Đồng Linh (Linh Cang), xã Bình Phú. Tháng 2-1964, cơ quan huyện ủy và cán bộ tỉnh ủy về đóng chân ở nơi đây để hoạt động. Đây là điều kiện thuận lợi cơ bản của phong trào cách mạng Bình Phú trong việc tiếp thu tinh thần chỉ đạo của Đảng trong việc xây dựng phong trào và phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh. Trong giai đoạn này, Căn cứ huyện ủy Thăng Bình đóng trên địa bàn thôn Linh Cang, xã Bình Phú được coi là căn cứ an toàn của huyện, tỉnh. Nhiều cơ quan, kho tàng của huyện, tỉnh được bảo đảm trong suốt quá trình cuộc chiến xảy ra. Đặc biệt năm 1964, nơi đây được chọn để xây dựng bệnh viện của huyện. Năm 1965, tỉnh chọn xây dựng bệnh viện quân khu 40. Cả hai bệnh viện được đảm bảo an toàn để phục vụ cho việc chữa trị thương bệnh binh và điều trị cho nhân dân.
Tháng 12 năm 1964, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ VI họp tại thôn Đồng Linh (Linh Cang), xã Bình Phú, huyện Thăng Bình. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Quảng Nam gồm 15 ủy viên, Ban Thường vụ gồm 5 ủy viên, do đồng chí Vũ Trọng Hoàng làm Bí thư, đồng chí Đào Đắc Trinh làm Phó Bí thư. (Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng 1930-1975, NXB CTQG, HN 2006, trang 458).
Tháng 9-1967, địch tổ chức cuộc hành quân liên kết 112, huy động nhiều bộ binh, pháo binh, máy bay chiến đấu tham gia. Ở Bình Phú, địch dùng trực thăng HU1A và HU1B đổ quân xuống các cao điểm: đồi Đá Mọc, đồi Đá Núi, đồi 62... Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, phối hợp với bộ đội chủ lực đóng chân trên địa bàn, lực lượng du kích xã Bình Phú đã liên tục phản kích, đánh bại các cuộc hành quân, tiêu hao một số lượng lớn sinh lực địch, thu nhiều vũ khí.
Lệnh tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, Căn cứ huyện ủy Thăng Bình chỉ đạo lực lượng vũ trang các xã Bình Sa, Bình Hải, Bình Triều, Bình Trung, Bình Tú, Bình Quế gồm 3.873 người tiến về Quán Gò. Địch dùng pháo, xe tăng bắn chặn. Nhân dân dũng cảm bao vây xe, phá công sở, diệt ác ôn.
Đầu năm 1969, Nich xơn chủ trương chuyển hóa chiến lược “phi Mỹ hóa” của Giôn - xơn thành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. “Phi Mỹ hóa chiến tranh” hay “Việt Nam hóa chiến tranh”, Căn cứ huyện ủy Thăng Bình thôn Linh Cang, xã Bình Phú được xác định là địa bàn chiến lược của huyện Thăng Bình nói riêng và chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng nói chung. Trong giai đoạn này, cũng là chiếc nôi cách mạng của chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng, che giấu các cơ quan lãnh đạo của Đảng, nơi tập kết của các lực lượng vũ trang. Vì vậy, địch đã tăng cường về mọi mặt để nhằm bình định tình hình.
Đầu năm 1969, Đại hội Đảng bộ huyện Thăng Bình lần thứ VIII tổ chức tại Hố Lữa, Bình Phú. Cuối năm 1969, địch cắm 17 chốt, dồn dân vào 13 khu ấp. Vùng giải phóng phía Tây chỉ còn một ít dân, chủ yếu là nhân dân Đồng Linh, Phước Cang, Phước Hà, Cao Ngạn, nam Vinh Huy. Nhiều gia đình ở phía nam suối Phước Hà (Đức An, Phước Hà chạy dọc lên Đồng Linh, Phước Cang) từ năm 1962 đến khi quê hương hoàn toàn giải phóng đã kiên trì “bám đất giữ làng” sống trong những túp lều tranh dột nát, bị Mỹ ngụy đốt đi đốt lại nhiều lần, vượt qua mọi khó khăn thử thách, ra sức tăng gia sản xuất, che chở, nuôi giấu cán bộ cách mạng, đóng góp sức người sức của góp phần vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.
Kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng như nhiều địa phương khác ở miền Nam Việt Nam, xã Bình Phú đã bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Ước tính trong chiến tranh, đế quốc Mỹ đã tổ chức hàng ngàn cuộc càn quét lớn nhỏ, đổ xuống Bình Phú hàng ngàn tấn bom đạn, chất độc da cam, trong đó một số lượng lớn bom đạn chưa nổ còn nằm rải rác ở khắp núi đồi, đồng ruộng, vườn tược của nhân dân. Hàng ngàn mét thép gai dùng làm ấp chiến lược trước đây chưa được tháo gỡ. Mỹ nguỵ đã để lại nơi đây những di chứng hết sức nặng nề: làng mạc tiêu điều, ruộng đồng hoang hoá, cây cối trơ trụi vì chất độc da cam và bom đạn kẻ thù.
Theo thống kê, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, xã Bình Phú có hàng ngàn người chết và bị thương do bom đạn và các thủ đoạn tra tấn của kẻ thù. Hàng ngàn ngôi nhà bị đốt cháy, hàng ngàn con trâu bò bị giết hại, số lượng gia súc gia cầm hầu như bị giết sạch. Sau chiến tranh, Bình Phú chỉ có 19 hộ trụ bám với khoảng 62 khẩu, và khoảng 30 hộ là nhân dân các xã vùng trung, vùng đông tản cư đến trong những năm chiến tranh. Các hộ dân sống phân bố ở chân núi, bìa rừng của các thôn Đức An, Đồng Linh, Phước Cang, Phước Hà.
Khi quê hương hoàn toàn giải phóng, nhân dân Bình Phú ở khắp nơi lần lượt trở về làng xưa, quê cũ. Phần lớn là nhân dân bị xúc tác đi các khu dồn ở Hà Lam, Đà Nẵng, Tam Kỳ, Chu Lai và một bộ phận đi lánh nạn. Không khí đoàn tụ, sum họp sau ngày giải phóng bừng lên ở từng làng quê, ngõ xóm và lan toả trong mỗi gia đình. Được trở về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, được gặp lại người thân, bà con chòm xóm ai nấy cũng vui mừng, phấn khởi. Mặc dù còn ngỗn ngang đạn bom, sắt thép, đồng quê, vườn tược tiêu điều nhưng không khí đoàn tụ sau những năm tháng ly hương đã đem lại một sức sống mới trên quê hương Bình Phú.
Cùng với các địa phương khác, Căn cứ huyện ủy Thăng Bình thôn Linh Cang, xã Bình Phú là cơ sở cách mạng nên hệ thống chính quyền được giữ vững xuyên suốt qua các thời kỳ kháng chiến. Mặc dù chiến tranh đã để lại những hậu quả hết sức tàn khốc. Nó không chỉ cướp đi nhiều sinh mạng, tài sản của nhân dân, làm biến dạng bộ mặt làng quê mà còn để lại những di chứng hết sức nặng nề cho mảnh đất và con người nơi đây. Với phẩm chất kiên cường của những con người vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh khói lửa, Căn cứ huyện ủy Thăng Bình cùng với nhân dân Bình Phú đã bất chấp mọi khó khăn, gian khổ, vẫn một lòng một dạ gắn bó với mảnh vườn, thửa ruộng, hăng say lao động tái thiết quê hương, cùng cả nước vững bước tiến vào kỉ nguyên mới: Kỉ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
IV. Khảo tả di tích.
Địa điểm Căn cứ huyện ủy Thăng Bình trong kháng chiến được quy hoạch trên một khuôn viên rất rộng nằm trong thôn Linh Cang, có diện tích khoảng chừng 500ha. Trước năm 1963, khu căn cứ đóng tại tại Hố Lữa, sau đó bị lộ nên di dời vào Hố Dâu. Tại khu căn cứ, các cơ quan trú đóng bao gồm: Cơ quan cơ yếu của quân khu V, Huyện đội, Công binh, Thông tin, bệnh viện của huyện. Năm 1965, tỉnh chọn xây dựng bệnh viện quân khu 40 (năm 1965). Cả hai bệnh viện được đảm bảo an toàn để phục vụ cho việc chữa trị thương bệnh binh và điều trị cho nhân dân.
V. Loại hình di tích.
Di tích lịch sử.
VI. Giá trị khoa học lịch sử.
- Tại Địa điểm Căn cứ huyện ủy Thăng Bình, vào tháng 7 năm 1973, Hội nghị khu ủy khu V được tổ chức nhằm triển khai tình hình nhiệm vụ mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Theo đó, hội nghị đã quán triệt sâu rộng tinh thần “Địch đánh phá, lấn chiếm vùng ta thì ta cương quyết phản công và tiến công lại” và đề ra nhiệm vụ trọng tâm lúc này là “ra sức đánh bại lấn chiếm, bình định của địch và giành dân, giữ đất, mở rộng quyền làm chủ, phát triển thực lực của ta”. Thực hiện kế hoạch của Khu uỷ khu V, hội nghị Tỉnh uỷ Quảng Nam - Đà Nẵng tổ chức họp ở Phước Hà có đồng chí Võ Chí Công, Bí thư khu uỷ đến dự.
- Tối ngày 13-3-1975, tại Địa điểm Căn cứ huyện ủy Thăng Bình, mặt trận giải phóng Quảng Nam đã tổ chức lễ xuất quân tiến về vùng đông. Đồng chí Hoàng Minh Thắng, bí thư đảng uỷ mặt trận đã trao cờ quyết thắng cho đồng chí Hoàng Minh Năm (Năm Lựu) và cán bộ chiến sĩ vũ trang của huyện, của tỉnh tham gia cánh quân giải phóng vùng đông Quảng Nam. Ngay trong đêm 13-3-1975 đến sáng ngày 14 - 3 - 1975, lực lượng vũ trang địa phương phối hợp với tiểu đoàn 72 và tiểu đoàn 11 bộ đội địa phương tỉnh tấn công tiêu diệt các chốt điểm: 59, Gia Hội, Gò Dài.... Ở Bình Phú, địch đã bị lực lượng du kích địa phương và lực lượng tiểu đoàn 72 kiên quyết chặn đánh, tiêu diệt một bộ phận, buộc địch co cụm lại và tìm đường rút chạy. Sau khi giải phóng xã Bình Phú, lực lượng vũ trang các xã khác trên địa bàn tiến về giải phóng huyện lỵ và các xã vùng trung Thăng Bình. Sáng ngày 26-3-1975, trước khí thế tấn công dồn dập của ta, lực lượng nguỵ quân, nguỵ quyền ở Hà Lam bỏ chạy. Chiều ngày 26-3-1975, quân ta tiến vào tiếp quản quận lỵ, giải phóng hoàn toàn huyện Thăng Bình.
- Địa điểm Căn cứ huyện ủy Thăng Bình đã góp phần xứng đáng vào phong trào cách mạng chung của miền Nam và của cả nước, làm sụp đổ âm mưu “tìm diệt” và “bình định” trong chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Với tinh thần anh dũng, mưu trí trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng 02 Huân chương kháng chiến hạng Ba cho quân và dân thôn Đồng Linh và thôn Phước Cang.
- Chính tại nơi đây, Huyện ủy Thăng Bình đưa ra nhiều quyết định, chỉ thị quan trọng để kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến của quân và dân toàn huyện Thăng Bình đi đến ngày toàn thắng 30/4/1975; đặc biệt, tại di tích này vào tháng 12/1964, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ VI đã được tổ chức. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Quảng Nam gồm 15 ủy viên do đồng chí Vũ Trọng Hoàng làm Bí thư, đồng chí Đào Đắc Trinh làm Phó Bí thư. Do vậy, với ý nghĩa lịch sử to lớn như trên, di tích “Địa điểm Căn cứ Huyện ủy Thăng Bình” được xem là một di tích có tầm quan trọng đặc biệt không chỉ đối với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Bình Phú mà còn là di tích quan trọng của huyện Thăng Bình nói riêng và tỉnh Quảng Nam nói chung.
VII. Hiện trạng di tích.
Hiện nay, Địa điểm Căn cứ huyện ủy Thăng Bình hầu như bị lãng quên trong một thời gian khá dài do thiếu sự quan tâm của chính quyền các cấp, nhất là không có cán bộ chuyên trách nên công việc lập hồ sơ khoa học di tích cấp tỉnh là một công việc mới mẻ. Dẫn đến tình trạng địa điểm di tích đã trở thành hoang phế, cỏ cây trong khuôn viên um tùm, khó tìm dấu tích hàng loạt các di tích lịch sử văn hóa hiện còn tồn tại tại địa điểm Căn cứ huyện ủy Thăng Bình cũng như ký ức về một thời oanh liệt, hào hùng của vùng đất này.
VIII. Cơ sở pháp lý và phương án đề xuất.
Di tích “Địa điểm Căn cứ Huyện ủy Thăng Bình” chưa được lập hồ sơ xếp hạng, đây là thiếu sót đối với chính quyền địa phương và các ngành chức năng.
Để tiến hành các biện pháp lập hồ sơ xếp hạng, tôn tạo và phát huy các giá trị của di tích được xem là một di tích có tầm quan trọng đặc biệt không chỉ đối với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Bình Phú mà còn là di tích quan trọng của huyện Thăng Bình nói riêng và tỉnh Quảng Nam nói chung, chúng tôi lập lý lịch di tích này, kính đề nghị Trung tâm Quản lý di tích và danh thắng Quảng Nam thỏa thuận, đồng ý cho lập lập hồ sơ khoa học di tích “Địa điểm Căn cứ Huyện ủy Thăng Bình” tại xã Bình Phú, huyện Thăng Bình trong một thời gian gần nhất.
B. ĐỊA ĐIỂM CHIẾN THẮNG HÀ CHÂU – AN LÝ.
I. Tên gọi di tích.
Địa điểm Chiến thắng Hà Châu – An Lý
II. Địa điểm di tích.
Di tích "Địa điểm chiến thắng Hà Châu – An Lý" nằm trên địa bàn thôn Lý Trường, xã Bình Phú, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
III. Loại hình di tích.
Di tích lịch sử.
IV. Sự kiện, nhân vật lịch sử liên quan đến Di tích.
Tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng từng là trọng điểm của chính sách “tố cộng, diệt cộng” trước đây, nay Mỹ - Ngụy tiếp tục chọn làm thí điểm thực hiện lập "ấp chiến lược", "bình định”.
Tại địa bàn xã Bình Phú, triển khai kế hoạch Stalây – Taylo, địch tập trung củng cố ngụy quyền ở thôn, xã; mở rộng lực lượng ngụy quân, bảo an; tiến hành xây dựng một số chốt điểm, trong đó chốt điểm trọng yếu được xây dựng tại đồi 59, đồi Sơn. Chúng thành lập ở xã một trung đội dân vệ và mỗi thôn một trung đội thanh niên; sử dụng bọn mật thám, biệt kích áo xanh, bọn ác ôn chỉ điểm thường xuyên theo dõi, lùng sục, bắt bớ các cơ sở cách mạng và cán bộ ta.
Cùng với việc củng cố ngụy quyền, tăng cường ngụy quân, từ cuối năm 1961 địch triển khai xây dựng ấp chiến lược Phước Hà để dồn dân, tách dân khỏi lực lượng cách mạng nhằm thực hiện âm mưu “tát nước bắt cá”. Đối tượng trước tiên được địch đưa vào khu dồn là các gia đình mà chúng tình nghi có liên quan đến cách mạng, những gia đình có người thoát ly, tập kết, gia đình có thân nhân từng bị chúng thủ tiêu trước đó. Tiếp đó, chúng tiếp tục lập ấp chiến lược liên hoàn Lý Trường – Long Hội – Phước Hà và xem đây là ấp chiến lược điển hình, được xây dựng đầu tiên trên địa bàn Bình Phú cũng như vùng tây Thăng Bình. Ấp chiến lược này có hàng rào tre kiên cố bao bọc xung quanh, có trung đội dân vệ canh gác nghiêm ngặt, kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động của nhân dân trong ấp.
Ngày 25 tháng 9 năm 1962, phối hợp tấn công địch trên khắp chiến trường khu 5, tỉnh Quảng Nam mở chiến dịch Đông – Xuân, vượt sông Tiên giải phóng Sơn – Cẩm – Hà (huyện Tiên Phước). Nhân đà thắng lợi, lực lượng vũ trang và Đội công tác của huyện Thăng Bình đẩy mạnh tiến công địch, mở rộng vùng làm chủ và giải phóng một số xã phía Tây của huyện; đồng thời phát động quần chúng nổi dậy chống địch phản kích, xây dựng cơ sở tại một số thôn thuộc xã Bình Phú như Đồng Linh, Phước Cang, Đức An. Đến ngày 17 tháng 10 năm 1962, Đội công tác xã Bình Phú của huyện phối hợp với 15 du kích xã tổ chức đánh ấp chiến lược Phước Hà, diệt 27 tên, giải phóng 300 hộ. Tiếp đó, ta tấn công địch tại Hố Lửa, đập An Lý, xóm ông Bằng diệt 18 tên, đánh lui một tiểu đoàn cộng hòa và đại đội bảo an của địch ra khỏi vùng giải phóng.
Sau trận đánh ấp chiến lược Phước Hà, Huyện ủy Thăng Bình và Ban Quân sự huyện về đóng tại thôn Đồng Linh, xã Bình Phú để lãnh đạo phong trào cách mạng trên toàn huyện (từ tháng 12 năm 1962). Tại đây, tháng 12 năm 1963, Đảng bộ huyện Thăng Bình tổ chức Đại hội lần thứ VII và là Đại hội được tổ chức đầu tiên kể từ sau Hiệp định Giơnevơ (7/1954).
Đầu năm 1964, trước sự phát triển mạnh mẽ cũng phong trào cách mạng trên địa bàn Thăng Bình, trong đó có xã Bình Phú, địch huy động một lực lượng lớn từ các trung đoàn 51 (đóng ở Núi Quế, huyện Quế Sơn) và Sư đoàn 2, có sự yểm trợ của máy bay trực thăng đổ quân xuống các điểm cao ở Bình Phú; đồng thời ép nhân dân từ các xã vùng đông Thăng Bình đưa về tập trung tại khu vực Hà Châu – An Lý (xã Bình Phú) và thiết lập tại đây một khu dồn lớn.
Khu dồn Hà Châu – An Lý được địch cho là vào loại lớn và kiên cố nhất ở vùng tây Thăng Bình lúc này. Địch chia khu dồn Hà Châu – An Lý thành hai khu: Khu Hà Châu làm nơi giam giữ những gia đình địch cho là cộng sản; khu An Lý là nơi tập trung dân thường. Khu dồn rộng khoảng 10 ha, xung quanh đào hào sâu 1,5m, rộng 2m cắm chông dày đặc; phía trong hào chông là bờ rào bằng tre cao 2,5m được vót nhọn, cứ 1 cây đứng 1 cây xiên chỉa ra phía hào chông; phía trong rào tre là dây thép gai bung. Sau hai tháng bắt nhân dân mà chủ yếu là những gia đình có quan hệ cách mạng, đảng viên, tình nghi đóng góp công của để hoàn thành. Trong khu dồn có đồi Gò Lao, chúng cho 01 đại đội địa phương quân với khoảng 80 tên và 01 trung đội dân vệ, do tên thiếu úy Đông chỉ huy, thường xuyên canh gác cẩn mật, kiểm soát chặt chẽ. Địch luôn huênh hoang “Suối Hà Châu chảy ngược mới đánh được đồn Hà Châu”.
Đầu năm 1964, Huyện ủy Thăng Bình mở hội nghị mở rộng với sự tham dự của Đội trưởng Đội công tác các xã; đồng chí Bốn Hương, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam cũng dự hội nghị. Hội nghị chủ trương phát động quần chúng đấu tranh phá kìm, phá ấp chiến lược, từng bước làm chủ địa phương, xây dựng lực lượng cách mạng tại chỗ, lập chính quyền tự quản, các đoàn thể giải phóng, quân dân du kích, tạo thế để bảo vệ vùng giải phóng. Hội nghị cũng chủ trương đánh mạnh vùng Tây buộc địch phải điều quân đối phó, tạo điều kiện để nhân dân vùng Đông nổi dậy giải phóng.
Cuối tháng 8 năm 1964, Huyện ủy Thăng Bình tổ chức hội nghị nhằm rà soát lại công tác chuẩn bị. Theo kế hoạch, xã Bình Dương được chọn làm xã trọng điểm, mở ra cho cuộc đồng khởi giành lại vùng Đông huyện Thăng Bình. Đồng chí Hoàng Minh Thắng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chính trị viên Tỉnh đội Quảng Nam trực tiếp chỉ đạo. Đầu tháng 9 năm 1964, đồng chí Hoàng Minh Thắng và một số đồng chí trong Huyện ủy Thăng Bình và các trinh sát thuộc Đại đội 2 Tiểu đoàn 70 của tỉnh rời căn cứ Huyện ủy Thăng Bình (lúc này đang đóng tại thôn Đồng Linh, xã Bình Phú) hành quân xuống Đồng Dương.
Để kìm chân và kéo địch về phía Tây, tạo điều kiện cho vùng Đông phát động quần chúng nổi dậy, các lực lượng phía Tây do đồng chí Ngô Thanh Dũng, Bí thư Huyện ủy Thăng Bình và đồng chí Quách Tử Hấp, Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Quảng Nam trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy đánh đồn Đất Đỏ và khu dồn Hà Châu – An Lý.
Lúc này, địch ở khu dồn Hà Châu – An Lý có 1 đại đội bảo an và 1 trung đội dân vệ.
Đêm ngày 4, rạng sáng ngày 5 - 9 - 1964, lực lượng du kích xã phối hợp với Đội công tác huyện Thăng Bình và Tiểu đoàn 70 Tỉnh đội Quảng Nam, do đồng chí Cả - Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Đỗ Châu Sa - Tiểu đoàn phó, đồng chí Hà Liểm - chính trị viên Tiểu đoàn. Tiểu đoàn 70 sử dụng hai đại đội tham gia trận đánh; trong đó Đại đội 2 đánh đồi Đất Đỏ, Đại đội 1 đánh khu dồn Hà Châu – An Lý. Đại đội 1 do đồng chí Phương - Đại đội trưởng, chia làm hai mũi tấn công; mũi thứ nhất từ dọc tuyến đường đồi Đất Đỏ đánh thẳng xuống phía Bắc Ấp Hà Châu, mũi thứ hai đi bao từ phía đập An Lý, đánh thọc ra phía Nam khu dồn Hà Châu – An Lý.
Trong vòng 40 phút, các lực lượng của Tiểu đoàn 70 và Đội công tác huyện Thăng Bình, du kích xã Bình Phú đã tiêu diệt hoàn toàn khu dồn Hà Châu – An Lý, diệt gọn đại đội bảo an và trung đội dân vệ của địch; bắt sống tên ác ôn thôn trưởng thôn Linh Cang cùng tên ác ôn thôn trưởng thôn Châu Xuân và tên trưởng công an xã Bình Định; ta thu 2 khẩu trung liên, 3 khẩu cối 81, 40 khẩu tiểu liên; phá tan khu dồn, đưa gần 100 hộ dân trở về làng cũ.
Như vậy, với chiến thắng Hà Châu – An Lý, xã Bình Phú hoàn toàn giải phóng. Ý nghĩa của chiến thắng này, ngoài mục tiêu phá vỡ vòng vây của địch, không cho chúng khôi phục lại các ấp chiến lược, phá âm mưu bình định của địch, đưa nhân dân trở về làng cũ, khôi phục lực lượng cách mạng tại địa bàn các xã vùng tây Thăng vững mạnh; tạo điều kiện cho các xã vùng Đông tiến hành đồng khởi; chiến thắng này còn tạo thế để bảo vệ căn cứ của Tỉnh ủy Quảng Nam ở vùng Sơn – Cẩm – Hà (huyện Tiên Phước) và tạo thế vững chắc, an toàn để Huyện ủy Thăng Bình tiếp tục trụ bám, xây dựng căn cứ của Huyện ủy tại thôn Linh Cang.
Sau chiến thắng Hà Châu – An Lý, bên cạnh việc các cơ quan của Tỉnh ủy, Huyện ủy về đứng chân trên địa bàn xã Bình Phú, nhiều cơ quan, kho tàng của huyện, tỉnh được bảo đảm trong suốt quá trình cuộc chiến xảy ra. Năm 1964, nơi đây được chọn để xây dựng bệnh viện của huyện. Năm 1965, tỉnh chọn xây dựng bệnh viện quân khu 40. Cả hai bệnh viện được đảm bảo an toàn để phục vụ cho việc chữa trị thương bệnh binh và điều trị cho nhân dân.
Tháng 12 năm 1964, tại thôn Đồng Linh (Linh Cang), xã Bình Phú, Đảng bộ tỉnh Quảng Nam tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ VI. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Quảng Nam gồm 15 ủy viên, Ban Thường vụ gồm 5 ủy viên, do đồng chí Vũ Trọng Hoàng làm Bí thư, đồng chí Đào Đắc Trinh làm Phó Bí thư. Cũng tại đây, cuối tháng 12 năm 1964, Huyện ủy Thăng Bình tổ chức hội nghị cán bộ nhằm tổng kết cuộc đồng khởi mùa Thu năm 1964 trong toàn huyện; đồng thời đề ra những phương hướng, nhiệm vụ mới cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên địa bàn huyện thời gian tới.
Tháng 9-1967, địch tổ chức cuộc hành quân liên kết 112, huy động nhiều bộ binh, pháo binh, máy bay chiến đấu tham gia. Ở Bình Phú, địch dùng trực thăng HU1A và HU1B đổ quân xuống các cao điểm: đồi Đá Mọc, đồi Đá Núi, đồi 62... Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, phối hợp với bộ đội chủ lực đóng chân trên địa bàn, lực lượng du kích xã Bình Phú đã liên tục phản kích, đánh bại các cuộc hành quân, tiêu hao một số lượng lớn sinh lực địch, thu nhiều vũ khí.
Cuối năm 1969, địch cắm 17 chốt, dồn dân vào 13 khu ấp. Vùng giải phóng phía Tây chỉ còn một ít dân, chủ yếu là nhân dân Đồng Linh, Phước Cang, Phước Hà, Cao Ngạn, nam Vinh Huy. Nhiều gia đình ở phía nam suối Phước Hà (Đức An, Phước Hà chạy dọc lên Đồng Linh, Phước Cang) từ năm 1962 đến khi quê hương hoàn toàn giải phóng đã kiên trì “bám đất giữ làng” sống trong những túp lều tranh dột nát, bị Mỹ ngụy đốt đi đốt lại nhiều lần, vượt qua mọi khó khăn thử thách, ra sức tăng gia sản xuất, che chở, nuôi giấu cán bộ cách mạng, đóng góp sức người sức của góp phần vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.
Tại khu vực này, tháng 7 năm 1973, Khu ủy khu V tổ chức hội nghị nhằm triển khai tình hình nhiệm vụ mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hội nghị đã quán triệt sâu rộng tinh thần “Địch đánh phá, lấn chiếm vùng ta thì ta cương quyết phản công và tiến công lại” và đề ra nhiệm vụ trọng tâm lúc này là “ra sức đánh bại lấn chiếm, bình định của địch và giành dân, giữ đất, mở rộng quyền làm chủ, phát triển thực lực của ta”. Thực hiện kế hoạch của Khu uỷ khu V, hội nghị Tỉnh uỷ Quảng Nam - Đà Nẵng tổ chức họp ở Phước Hà có đồng chí Võ Chí Công, Bí thư khu uỷ đến dự.
Trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, khu vực Hà Châu – An Lý – đồi 59 là nơi xuất phát của của Bộ chỉ huy tiền phương của tỉnh tiến về giải phóng vùng đông của tỉnh. Tối ngày 13 tháng 3 năm 1975, tại khu vực thôn An Lý, xã Bình Phú, đồng chí Hoàng Minh Thắng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận Quảng Nam đã trao cờ quyết thắng cho đồng chí Vũ Thành Năm (Năm Dừa), đại diện cho cán bộ, chiến sĩ của tỉnh tham gia cánh quân giải phóng vùng đông Quảng Nam.
Ngày 14 tháng 3 năm 1975, chiến dịch tổng tấn công giải phóng huyện Thăng Bình và các xã vùng Đông của tỉnh được mở màn bằng trận đánh của tiểu đoàn 72 và tiểu đoàn 11, đại đội đặc công 16 tấn công tiêu diệt các chốt điểm: 59, Gia Hội, Gò Dài (xã Bình Phú). Trên đà thắng lợi, sau khi giải phóng xã Bình Phú, lực lượng vũ trang các xã khác trên địa bàn tiến về giải phóng huyện lỵ và các xã vùng trung Thăng Bình. Chiều ngày 26 tháng 3 năm 1975, huyện Thăng Bình hoàn toàn giải phóng.
Kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng như nhiều địa phương khác ở miền Nam Việt Nam, xã Bình Phú đã bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Ước tính trong chiến tranh, đế quốc Mỹ đã tổ chức hàng ngàn cuộc càn quét lớn nhỏ, đổ xuống Bình Phú hàng ngàn tấn bom đạn, chất độc da cam, trong đó một số lượng lớn bom đạn chưa nổ còn nằm rải rác ở khắp núi đồi, đồng ruộng, vườn tược của nhân dân. Hàng ngàn mét thép gai dùng làm ấp chiến lược trước đây chưa được tháo gỡ. Mỹ nguỵ đã để lại nơi đây những di chứng hết sức nặng nề: làng mạc tiêu điều, ruộng đồng hoang hoá, cây cối trơ trụi vì chất độc da cam và bom đạn kẻ thù.
Theo thống kê, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, xã Bình Phú có hàng ngàn người chết và bị thương do bom đạn và các thủ đoạn tra tấn của kẻ thù. Hàng ngàn ngôi nhà bị đốt cháy, hàng ngàn con trâu bò bị giết hại, số lượng gia súc gia cầm hầu như bị giết sạch. Sau chiến tranh, Bình Phú chỉ có 19 hộ trụ bám với khoảng 62 khẩu, và khoảng 30 hộ là nhân dân các xã vùng trung, vùng đông tản cư đến trong những năm chiến tranh. Các hộ dân sống phân bố ở chân núi, bìa rừng của các thôn Đức An, Đồng Linh, Phước Cang, Phước Hà.
Chiến thắng Hà Châu – An Lý, cùng những chiến thắng khác cũng như những đóng góp của quân và dân Bình Phú, huyện Thăng Bình đã góp phần xứng đáng vào phong trào cách mạng chung của miền Nam và của cả nước. Với những đóng góp to lớn kể trên, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã tặng thưởng 02 Huân chương kháng chiến hạng Ba cho quân và dân thôn Đồng Linh và thôn Phước Cang. Năm 2000, xã Bình Phú được Chủ tịch nước tặng danh hiệu vinh dự “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
V. Giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thẫm mỹ của Di tích.
Chiến thắng Hà Châu – An Lý, xã Bình Phú hoàn toàn giải phóng. Ý nghĩa của chiến thắng này, ngoài mục tiêu phá vỡ vòng vây của địch, không cho chúng khôi phục lại các ấp chiến lược, phá âm mưu bình định của địch, đưa nhân dân trở về làng cũ, khôi phục lực lượng cách mạng tại địa bàn các xã vùng tây Thăng vững mạnh; tạo điều kiện cho các xã vùng Đông tiến hành đồng khởi; chiến thắng này còn tạo thế để bảo vệ căn cứ của Tỉnh ủy Quảng Nam ở vùng Sơn – Cẩm – Hà (huyện Tiên Phước) và tạo thế vững chắc, an toàn để Huyện ủy Thăng Bình tiếp tục trụ bám, xây dựng căn cứ của Huyện ủy tại thôn Linh Cang.
Sau chiến thắng Hà Châu – An Lý, bên cạnh việc các cơ quan của Tỉnh ủy, Huyện ủy về đứng chân trên địa bàn xã Bình Phú, nhiều cơ quan, kho tàng của huyện, tỉnh được bảo đảm trong suốt quá trình cuộc chiến xảy ra. Năm 1964, nơi đây được chọn để xây dựng bệnh viện của huyện. Năm 1965, tỉnh chọn xây dựng bệnh viện quân khu 40. Cả hai bệnh viện được đảm bảo an toàn để phục vụ cho việc chữa trị thương bệnh binh và điều trị cho nhân dân.
Do vậy, di tích Địa điểm chiến thắng Hà Châu – An Lý có giá trị quan trọng không chỉ đối với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Bình Phú mà còn của huyện Thăng Bình và tỉnh Quảng Nam nói chung trong việc giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống yêu nước và tinh thần bất khuất, không sợ gian khổ, hy sinh của nhân dân Bình Phú và huyện Thăng Bình đối với các thế hệ con cháu hôm nay và mai sau.
VI. Tình trạng bảo vệ và phát huy giá trị Di tích.
Hiện nay, UBND xã Bình Phú đã khoanh vùng khu vực bảo vệ di tích Địa điểm Chiến thắng Hà Châu – An Lý, với tổng diện tích 5000m2.
VII. Phương hướng bảo vệ và phát huy giá trị Di tích.
Nguyện vọng của Đảng bộ cũng như nhân dân huyện Thăng Bình nói chung, xã Bình Phú nói riêng mong muốn các cấp có thẩm quyền xem xét, xếp hạng Địa điểm Chiến thắng Hà Châu – An Lý, xã Bình Phú là di tích cấp tỉnh, làm cơ sở cho công tác giáo dục, phát huy truyền thống yêu nước của nhân dân huyện Thăng Bình và xã Bình Phú.
Trong thời gian tới, UBND huyện Thăng Bình sẽ chỉ đạo các đơn vị liên quan của huyện và UBND xã Bình Phú tiến hành các biện pháp để bảo vệ di tích; đồng thời lập bản đồ khoanh vùng bảo vệ di tích, tiến hành cắm mốc chỉ giới phần diện tích đã được khoanh vùng bảo vệ, cắm biển chỉ dẫn đường đến di tích; thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho di tích này.
VIII. Kết luận.
Với những ý nghĩa đó, căn cứ Luật Di sản văn hóa năm 2001 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009; Căn cứ Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa và các quy định của pháp luật có liên quan, Địa điểm Chiến thắng Hà Châu – An Lý (xã Bình Phú, huyện Thăng Bình) đảm bảo các tiêu chí để xếp hạng di tích cấp tỉnh.
Nhằm phát huy những giá trị lịch sử, đồng thời góp phần trong việc giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng đối với các thế hệ trên địa bàn huyện Thăng Bình thông qua di tích Địa điểm Chiến thắng Hà Châu – An Lý trong thời gian tới, UBND huyện Thăng Bình đã chỉ đạo UBND xã Bình Phú phối hợp với Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Truyền thanh – Truyền hình huyện xây dựng hồ sơ di tích lịch sử cách mạng “Địa điểm Chiến thắng Hà Châu – An Lý” trình cấp có thẩm quyền xem xét, xếp hạng di tích cấp tỉnh.
ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ BÌNH PHÚ